24 tháng 11, 2012

Kho vàng núi Tàu nhìn từ Biển Đông



Biển Đông có diện tích khoảng 3,5  triệu km2 bao bọc chủ yếu bởi Trung Quốc, Philippines,Malaysia và Việt Nam.Trong Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 Philippines là mắt xích chiến lược  quan trọng nằm trên tuyến đường biển từ đảo Borneo đến Sumatra của Đế quốc Nhật Bản. Philippines là nguồn cung cấp nguyên vật liệu quan trọng cho nền công nghiệp Nhật Bản .Ngoài ra nhiều vịnh nước sâu và bãi biển rất lý tưởng cho việc xây dựng cảng tiếp tế hoặc đổ bộ đường biển.

Kho báu của tướng Tomoyuki Yamashita gồm rất nhiều vàng thỏi,bạch kim,đá quí và các cổ vật có giá trị được cho là do lính Nhật cướp bóc từ 12 nước  Đông Á và  Đông Nam Á, đã được chôn giấu tại hơn 175 địa điểm ở Philippines trước khi chiến tranh kết thúc.
Với Việt Nam chỉ có vịnh Cam Ranh được nhắc tới trong hải trình của tầu khu trục hạng nhất Nhật Bản mang tên Uranami. Tàu Uranami được Hải quân Đế quốc Nhật Bản đưa vào sử dụng ngày 30-6-1929. Đầu năm 1942 tàu Uranami hộ tống các tàu tuần dương hạng nặng Suzuya, Kumano, Mogami và Mikuma khởi hành từ Sama qua vịnh Cam Ranh đến phía bắc Sumatra.Từ ngày 13-4 đến 22-4-1942  tàu Uranami trở về xưởng hải quân Kure đã đi ngang qua Singapore và vịnh Cam Ranh.
Tướng Tomoyuki Yamashita thống lãnh Tập đoàn quân 25 Nhật Bản từ năm 1941  chỉ huy các mặt trật chính ở Malaysia, Singapore, Mãn Châu và cuối cùng là Philippines tại vùng núi phía bắc Luzon vào năm 1944. Tướng Yamashita có thể đã ở Việt Nam một thời gian rất ngắn trong năm 1944.
Cuốn sách Chiến binh vàng ( Gold Warrios: America’s Secret Recovery of Yamashita’s gold) của ông bà Sterling – Peggy Seagrare xuất bản năm 2003 có nhắc đến tên chàng thanh niên người Philippines là Ben Valmores với Đường hầm số 8 chứa cả ngàn tấn vàng thỏi nằm sâu 67,0m dưới lòng đất trong khu rừng núi đảo Luzon ( lãnh địa của tướng Yamashita ). Ông chủ của Ben Valmores chính là Hoàng thân Takeda Tsuneyoshi,cháu nội của Hoàng đế Minh Trị, người phụ trách việc bảo vệ các điểm chôn giấu vàng tại Philippines.
Việc tìm kiếm,khai thác các hầm vàng kho báu Yamashita đáng ghi nhận nhất là câu chuyện đào được 60.000 tấn vàng của 96 cựu binh Tiểu đoàn 16 bộ binh Philippines. Theo như Đơn gửi kiện cựu Tổng thống Fedinad Marcos của Nhóm cựu binh Tiểu đòan 16 tại Tòa án Zurich,Thụy Sĩ  hay Califonia,Mỹ thì từ năm 1973 đến 1985 theo lệnh của Tổng thống Marcos và tổng tham mưu trưởng Fabian Ver tiểu đoàn 16 được tái lập cùng Lữ đoàn công binh và Cục Quân nhu AFP nhận nhiệm vụ khai quật các kho vàng Yamashita. Họ đã tìm ra và khai quật kho vàng đầu tiên ở gần hồ Caliyara, Lumban tỉnh Laguna vào tháng 3-1973. Kho vàng nằm sâu dưới đất 14-15 m với nhiều thùng thép tròn cao chừng 1,0 m đường kính 0,45 m và nhiều hộp đồng hình chữ nhật. Theo ông Roberlo B.Caoile,người phát ngôn của nhóm cho biết ngoài vàng thỏi,vàng nén,kim loại quí như bạch kim, nickel, thiếc… còn có cả kim cương thô và thành phẩm. Tiểu đoàn 16 đã lấy được 60.000 tấn vàng từ 30 trong số 175 hầm vàng chôn giấu ở Philippines.
Tổng thống Marcos bị phế truất năm 1986 nhưng năm 1992 bà góa phụ Imelda Marcos tái xác nhận chồng bà đã tìm được 4.000 tấn vàng từ kho báu Yamashita.
Trong cả hai trường hợp thật khó tin vì số lượng vàng quá lớn.Trong năm 2011 tổng số lượng vàng khai thác được của 10 quốc gia hàng đầu thế giới là Trung Quốc, Australia, Mỹ, Nga, Nam Phi, Peru, Canada, Ghana, Indonesia và Uzbekistan mới chỉ sản xuất đuợc trên 1.800 tấn vàng. Hãng tin CNBC đưa tin theo báo cáo của Hiệp hội vàng thế giới WGC đưa ra tính đến tháng 8-2011 danh sách 15 quốc gia, vùng và lãnh thổ, tổ chức, ngân hàng trung ương sở hữu vàng tổng cộng 30.700 tấn,trong đó đứng đầu là Mỹ với 8.965,6 tấn ( trị giá 522,16 tỷ USD ).
Vậy kho vàng núi Tàu 4.000 tấn có bao nhiêu phần trăm hy vọng ?
Theo các nhà địa chất tiền đề cho các hang động chôn giấu kho báu phải là khu vực núi đá vôi nhiều hang Kastơ hoặc vùng có nhiều họat động núi lửa và đứt gãy đi kèm. Núi Tàu hình thành từ đá Hệ tầng Nha Trang ( K nt ) gồm ryolit,trachyryolit,felsit,đaxit và túp của chúng. Đây là các đá nguồn gốc macma phun trào,không phải là đá vôi. Chúng rất cứng và khó có thể đào một cái hang rộng hàng trăm m3 bằng thủ công.
So với Philippines đất nước của 7.000 hòn đảo với vô số núi lửa và hang động Kastơ thì việc chôn giấu vàng dễ dàng hơn nhiều. Cùng với vịnh Hạ Long. kỳ quan của Philippines là Sông ngầm Puerto Princesa ở đảoPalawan ( đảo gần nhất với quần đảo Hòang Sa , Việt Nam ). Nằm dưới những dãy núi đá vôi vùng Palawan ,con sông ngầm này chảy thẳng ra Biển Đông với chiều dài 8,2 km. Gần đây Phần 4 của lọat phim điệp viên Jason Bourne với tựa đề “ The Bourne Legacy “ có những cảnh quay tại đây và nhiều người lầm tưởng là Hạ Long của Việt Nam.
Các sông ngầm Việt Nam ở vùng đá vôi Phong Nha – Kẻ Bàng dài hơn nhiều nhưng không chảy ra biển. Một vùng Kastơ khác của Philippines cũng rất nổi tiếng là Cánh đồng Nhũ hoa hay Những ngọn đồi Sô-cô-la tại đảo Bohol. Những ngọn đồi lớn nhỏ như những ụ rơm vàng cao từ 30-120 mso với mặt đất trông như những chiếc nhũ hoa của cô gái tuổi dậy thì. Ở Việt Nam,cao nguyên đá Đồng Văn- Công viên địa chất quốc tế cũng có ngọn núi đôi tương tự nhưng chỉ duy nhất một cặp vậy thôi,còn ở Bohol tất thảy có 1268 ngọn đồi như vậy trải rộng trên diện tích khoảng 50 km 2
Từ chân núi Tàu đi ra bờ biển chừng 2,0 km sẽ gặp vùng biển cạn ven bờ trải dài 1,5-2,0 km đến độ sâu – 5,0 m. Nền đáy biển là cát bùn,cát mịn lẫn vỏ sò,đôi chỗ lớp san hô mỏng và có thể cả lớp bùn mềm nhão khá dày. Không chỉ cấu tao đáy biển ven bờ bất lợi,thời tiết khu vực Miền Trung xấu quanh năm và cả việc thủy triều lên xuống chênh cao đến hơn 2,0 m cũng gây rất nhiều khó khăn khi tiếp cận bờ. Tuy nhiên điểm mấu chốt của việc chôn giấu được 4.000 tấn vàng tại núi Tàu chính là khả năng vận chuyển trên biển để có thể cập bờ tại Mũi Lang Ông vào thời điểm 1943-1944.
Vào năm 1941 Hải quân Đế quốc Nhật Bản có tới 408 tàu các loại, các tàu chiến vận tải bao gồm:
- Thiết giám hạm : 10 tàu.
- Tuần dương hạm : 38 tàu.
- Khu trục hạm : 112 tàu.
Trong trận tấn công Trân Châu Cảng ngày 07-12-1941 đã gây tổn thất nặng nề cho Mỹ nhưng Nhật Bản chỉ mất 5 tàu ngầm mini ( loại bỏ túi ) và 29 máy bay. Ngay sau đó Hải quân Mỹ đã giành thắng lợi quyết địnhtrong trận hải chiến Midway tháng 6-1942- trận hải chiến quan trọng nhất ở Thái Bình Dương và có lẽ trong cả Chiến tranh Thế giới lần thứ 2. Hải quân Đế quốc Nhật Bản mất 4 tàu sân bay,1 tàu tuần dương hạm, 248 máy bay và 3.057 binh sĩ thiệt mạng. Chiến thắng Midway đưa Mỹ trở về thế chủ động và Nhật Bản thiệt hại nặng nề khiến không thể hồi phục lại. Từ năm 1942 đến hết cuộc chiến trên vùng biển Thái Bình Dương Nhật Bản hoàn toàn mất ưu thế và “ hiếm khi máy bay Mỹ gặp được tàu đối phương trên biển “.
Các tàu chiến của Nhật Bản bị đánh chìm vô số không chỉ bởi tàu ngầm,tàu phóng lôi mà còn bị săn đuổi bởi các máy bay tiêm kích ném bom tối tân của Mỹ như : B-26 Marauder, Grumman TBF Avenger, F4U Corsair, F6F Hellcat…Lính Nhật đã phải đặt tên cho máy bay F4U là Tiếng huýt sáo chết chóc ( Whistling Death ). Loại F4U Corsair vượt trội so với loại A6M  Zero của Nhật không chỉ tính năng kỹ thuật mà cả hỏa lực đáng nể với 4 pháo 20 mm, 8 rocket, 6 súng máy 12 ly 7 ( 2.400 viên đạn ) và lượng bom 1.820 kg. Chỉ riêng 4 loại máy bay này Mỹ đã sản xuất kể từ năm 1941 đến hết cuộc chiến là 39.971 chiếc.
Tàu chiến Nhật bị đánh chìm liên tục tới mức sản xuất không kịp.Xem bảng thống kê 10 loại Lớp tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản bị đánh đắm trong 3 năm 1942-1944 sẽ thấy rõ điều này.
                                           BẢNG THỐNG KÊ
STT
Lớp tàu khu trục hạng nhất
( Kiểu tàu )
Trọng tải
tiêu chuẩn
( tấn )
Trọng tải khi đầy tải
( tấn )
Mớm nước
( m )
Số lượng tàu sản xuất
Số lượng tàu bị đánh chìm
1
Minekaze
1.345
1.650
2,9
15
07
2
Kamikaze
1.400
1.720
2,9
09
05
3
Mutsuki
1.315
1.445
2,96
12
12
4
Fubuki
1.750
2.050
3,2
24
20
5
Akatsuki
1.750
2.050
3,2
04
03
6
Hatsuharu
1.530
1.802
3,38
06
05
7
Shiratsuyu
1.685
-
3,5
10
09
8
Asashio
2.370
2.408
3,7
10
09
9
Kagero
2.032
2.540
3,76
19
13
10
Yugumo
2.110
2.560
3,76
19
18
Tổng cộng Nhật Bản mất 100 tàu chiến trong vòng 3 năm.
Các loại tàu chiến to lớn ,nặng nề khó tham gia vào đội tàu vận chuyển vàng gồm có :
- Lớp Thiết giám hạm (Kongo, Fuso, Ise, Nagato và Yamato ) có trọng tải từ 28.000 tấn đến 42.000 tấn, mớm nước từ 9,0 m đến 10,4 m.
- Lớp Tàu tuần dương hạng nặng ( Furutaka, Aoba, Myoko, Takao, Mogami,và Tone ) có trọng tải từ 8.000 tấn đến 15.000 tấn, mớm nước từ 5,7 m đến 6,5 m.
- Lớp Tàu tuần dương hạng nhẹ ( Tenryu, Kuma, Nagara, Yubari, Sendai, Katoki, Agano, Oyodo và  Yadoshima ) có trọng tải từ 4.000 tấn đến 11.000 tấn, mớm nước từ 4,0 m đến 5,6 m.
Các con tàu chở vàng bị đánh đắm được nhắc đến như sau :
- Tàu White Star Liner HMS Laurent bị thủy lôi đánh chìm tại biển Iceland.Tàu chở 43 tấn vàng ( trị giá 23,8 triệu USD vào thời đó ).
- Tàu Nuestra Senora deAtocha bị bão đánh chìm ngoài biển Florida năm 1922. Trên tàu chở rất nhiều hàng hóa quí hiếm cùng 44 tấn vàng và bạc.
Năm 1- 942 Mỹ bắn chìm tàu Abochi của Nhật Bản khi đang chở 40 tấn vàng,12 tấn bạch kim và 150 cara kim cương.
Theo công ty Seabed Exploration ( năm 2007 ) ở Việt Nam có khoảng 40 điểm tàu đắm có thể tìm kiếm được. Từ năm 1990 đến nay Việt Nam mới chỉ trục vớt khai thác được 5 tàu chìm, đầu tiên là ở Hòn Cau (Vũng Tàu ) sau đến Hòn Dầu ( Kiên Giang ),Cù Lao Chàm ( Quảng Nam ) , Cà Mau và  Bình Thuận . Con tàu chứa cổ vật thứ 6 ( chủ yếu là đồ gốm sứ như các con tàu trước ) có lẽ là Bình Châu ( Quảng Ngãi ).
Như vậy khả năng huy động tới 84 tàu chở vàng và bị đánh chìm 66 chiếc là điều khó tin khi có một số lượng tàu đông như vậy trong thời điểm chiến tranh rất ác liệt mà lợi thế đang thuộc về quân đội Mỹ và Đồng minh.
Mặt khác theo sử liệu các trận hải chiến sau Midway như Guadalcanal và Coral ( năm 1942 ), Vịnh Leyte và Biển Philippines ( năm 1944 ) Hải quân Nhật Bản chỉ huy động tối đa được 65 tàu chiến các loại ( Vịnh Leyte ) trong đó có 35 khu trục hạm.
Và điều cuối cùng chính xác thể  hiện trên Hải đồ Mảnh 3986 ( Anh Quốc 1951 ) : Hòn Khoai đến Mũi Kê Gà và Mảnh 3883 : Mũi Lagan đến Vũng Rô  phải xa bờ tới 2,0 km mới có luồng cho tàu có mớm nước dưới 5,0 m vào được. Luồng này chạy từ biển vào chỉ có một hướng đi duy nhất là chạy ngang phía nam Mũi Sừng Trâu từ đông sang tây rồi chuyển hướng đông bắc – tây nam vào sát bờ ở Mũi Lang Ông.
Với luồng tàu ra vào độc đạo, hẹp và cạn mà tập trung một số lượng khá đông tàu khu trục vận tải chắc chắn tướng Yamashita đã không thể quyết định việc này.
Nếu nhìn rõ Biển Đông từ Mũi Lang Ông,vùng biển Ninh Thuận đến bờ tây của Philippines có thể cánh cửa mở vào kho báu Núi Tàu đang ở một nơi khác. Dù sao huyền thoại vẫn còn đó : Kho vàng Núi Tàu của Tướng Yamashita.
                                                                                                         Nguyễn Đức Huy  11-2012

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

THÔNG BÁO HỌP MẶT THƯỜNG NIÊN NĂM 2018

Nhân kỷ niệm ngày giải phóng Thủ Đô 10/10 và ngày họp mặt Cựu học sinh C3 Nguyễn Trãi Hà Nội tại TP HCM lần thứ 18. Kính mời A/C tới dự họp...